Tâm hoảng hốt giao động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên.
+ Đức Đạt Lai Lạt Ma cầu nguyện tại Thượng Viện Hoa Kỳ    + SO SÁNH TƯ TƯỞNG “VÔ VI” CỦA LÃO TỬ VỚI TƯ TƯỞNG “VÔ VI” TRONG PHẬT GIÁO     + Ý nghĩa cài Hoa Hồng    + Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử    + Thơ: Vu lan xuống phố + Tháng bảy    + Mùa Vu Lan - nhìn lại chính mình!    + Hàn Quốc: Cảnh sát lục soát xe lãnh đạo Phật giáo     + Ăn chay đối với giới trẻ    + CẤU TRÚC SINH HỌC CỦA CON NGƯỜI PHÙ HỢP VỚI ĂN CHAY     + NGHI THỨC CẦU - AN    | Trang chủ Giới Thiệu Đăng ký Tìm kiếm Góp ý Liên hệ
+ Đức Đạt Lai Lạt Ma cầu nguyện tại Thượng Viện Hoa Kỳ   
+ SO SÁNH TƯ TƯỞNG “VÔ VI” CỦA LÃO TỬ VỚI TƯ TƯỞNG “VÔ VI” TRONG PHẬT GIÁO    
+ Ý nghĩa cài Hoa Hồng   
+ Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử   
+ Thơ: Vu lan xuống phố + Tháng bảy   
+ Mùa Vu Lan - nhìn lại chính mình!   
+ Hàn Quốc: Cảnh sát lục soát xe lãnh đạo Phật giáo    
+ Ăn chay đối với giới trẻ   
+ CẤU TRÚC SINH HỌC CỦA CON NGƯỜI PHÙ HỢP VỚI ĂN CHAY    
+ NGHI THỨC CẦU - AN   


 Khách online 41 
 Số truy cập  
User:  
Pass:  
 
Quên mật khẩu?
  Luật tạng  
     Tỳ-kheo giới (Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải)  

    Tập tục giữa Ấn, Tàu với ta khác nhau nhiều lắm. Xưa và nay càng khác hơn. Pg cũng vậy. Nên muốn hiểu luật thì phải biết những cái khác đó, kể cả cái khác giữa bắc tông với nam tông.

    Mục Lục
I. Dẫn Nhập Tỷ Kheo Giới Của Tứ Phần Luật
A. (1)
B. (2)
C. (3)
D. (4)
E. (5)
F. (6)
II. Phần Đầu Tỷ Kheo Giới
III. Tỷ Kheo Giới
A. Lời Mở Đầu
B. 4 Giới Khí
C. 13 Giới Tăng Tàn
D. 2 Giới Bất Định
E. 30 Giới Xả Đọa
F. 90 Giới Đọa
G. 4 Giới Hối Quá
H. 100 Giới Học
I. 7 Pháp Diệt Tránh
J. Lời Kết Thúc
IV. Phần Cuối Tỷ Kheo Giới
Ghi chú

Ghi Sau Khi Duyệt Tỷ Kheo Giới [^]

Tập tục giữa Ấn, Tàu với ta khác nhau nhiều lắm. Xưa và nay càng khác hơn. Pg cũng vậy. Nên muốn hiểu luật thì phải biết những cái khác đó, kể cả cái khác giữa bắc tông với nam tông.

Hãy nói vài ví dụ nhỏ nhặt. Tập tục khác nhau như Ấn ăn bốc, không biết như vậy thì không hiểu được giới 40 (trong 100 giới học) với ghi chú ăn không được một nửa vào miệng, một nửa còn nơi tay. Xưa nay khác nhau như rửa tay sau khi đại tiện thì xưa dùng đất, tro, bồ hòn, bồ kết, nay thì xà phòng. Ấy là chưa nói bao nhiêu cái khác, lớn có nhỏ có, giữa xưa và nay, giữa 2 tông bắc nam. Có những cái bây giờ khác hẳn rồi, thí dụ nói về ngọa cụ và tọa cụ.

Chỉ nói bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy ngày nay Tỷ kheo giới có một ít giới điều không còn nói đến nữa. Thế nhưng ngày nay lại có bao nhiêu cái mà Tỷ kheo giới đã không qui định trước được. Thí dụ sự học hành, sự giao tiếp... Chỉ sự giao tiếp mà thôi, mà bao nhiêu điều thích ứng hoặc phản ứng đã phải đặt ra. Chưa nói ăn mặc ở, 3 sự ấy có bao nhiêu là xáo trộn mà tiện lợi có, khó xử có.

Mấy lời ghi trên đây đi đến kết luận gì? Kết luận ở chỗ phải nhớ luôn đến cái chủ ý của Tỷ kheo giới. Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bâểc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗi và cử động bất xứng, nghĩa là cụ túc giới pháp và oai nghi. Rồi từ chủ ý đó, phải có những sự hạn chế (giá) và linh động (khai) mà sao cho như "liên hoa bất trước thủy", "sự lai tâm hiện, sự khứ tâm không".

Làm như vậy với ý thức và hậu quả là Tỷ kheo giữ được bản sắc của mình, của Pg mình - không để đời không có mình cũng được, hay mình cũng như đời mà thôi. Nói cách khác, Tỷ kheo không tự cao nhưng không tục hóa. Giới luật còn thì Phật pháp còn là như thế này đây.

Mồng 10 tháng 5, 2537
Trí Quang

--------------------------------------------------------------------------------

Dẫn Nhập Tỷ Kheo Giới Của Tứ Phần Luật [^]

(1) [^] Phật lịch 2518, tôi đã đọc tất cả 5 bộ luật của Phật giáo văn hệ Trung hoa, gọi tắt và ghi theo số hiệu của Đại tạng kinh bản Đại chính thì 1421 là Ngũ phần, 1425 là Tăng kỳ, 1428 là Tứ phần, 1435 là Thập tụng, 1442 là Hữu bộ. Ngoài ra, 1462 là Thiện kiến tuy không trọn vẹn mà rất đáng đọc.

Thế giới Phật giáo thông sử (tập 1 trang 54) nói Tăng kỳ là của Đại chúng bộ, Ngũ phần là của Hóa địa bộ, Tứ phần là của Pháp tạng bộ, Thập tụng là của Hữu bộ Ma du la, Hữu bộ là của Hữu bộ Ca thấp di la.

Muốn biết giữa 5 bộ luật như thế nào thì sơ khởi hãy đem giới bản của 5 bộ ra mà so sánh chút ít. Tỷ kheo giới có 8 loại: 1 là khí, 2 là tăng tàn, 3 là bất định, 4 là xả đọa, 5 là đọa, 6 là hối quá, 7 là học pháp, 8 là diệt tránh. Trong 8 loại này, chỉ có 2 loại 5 và 7 là 5 bộ khác nhau: loại 5 thì Tứ phần, Thập tụng và Hữu bộ đều có 90, Ngũ phần có 91, Tăng kỳ có 92; còn loại 7 thì Ngũ phần và Tứ phần có 100, Tăng kỳ có 66, Thập tụng có 113, Hữu bộ có 42. Nhìn đại khái, giới điều quan trọng thì 5 bộ như nhau, giới điều linh tinh mới khác nhau. Nhìn thêm chút nữa, giới bản của Tăng kỳ, Ngũ phần và Thập tụng thì lời kệ mở đầu và kết thúc đều như nhau, chỉ Tứ phần với Hữu bộ mới khác nhau. Xét văn tự thì Tứ phần có chậm nhất, xét bộ phái thì Tăng kỳ có sớm nhất. Theo ngài Pháp hiển ghi thì "luật Tăng kỳ này khi Phật tại thế được đại chúng đầu tiên tuân hành, được lưu truyền tại tinh xá Kỳ hoàn".

Tôi suy đoán rằng Thượng tọa bộ có 1 bộ luật là bộ được tụng ra trong Đại hội 1 của kiết tập 1. Rồi bộ này được khẩu truyền mà học thuộc lòng cho đến chép ra văn bản là các bộ luật của các bộ phái khác. Riêng bộ Tăng kỳ của Đại chúng bộ có thể được tụng ra trong Đại hội 2 của kiết tập 1, nhưng cũng có thể chỉ là thuộc lòng bộ luật của Đại hội 1. Thế giới Phật giáo thông sử (tập 1 trang 55) nói bộ luật này là của Thượng tọa bộ căn bản, nay không tìm được. Bộ luật của Paly là của hệ Phân biệt thuyết thiên về Đại chúng bộ, có sau cả luật Tăng kỳ.

Trên đây là nói 2 bộ luật của 2 bộ gốc là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Còn lại 4 bộ Ngũ phần, Thập tụng, Tứ phần và Hữu bộ thì toàn là hệ Thượng tọa bộ cả. Ít ra, chính trong những bộ luật hiện còn mà thấy đại thể giới pháp có thể nói là khá nhất vị.

(2) [^] Tứ phần luật gọi đủ là Đàm mô đức tứ phần luật. Đàm mô đức dịch nghĩa là Pháp tạng hay Pháp hộ, tên của bộ chủ Pháp tạng bộ. Theo Dị tông luận thì Pháp tạng bộ là thứ 9 trong hệ Thượng tọa bộ, xuất từ Hóa địa bộ và có trong bách kỷ 3 sau Phật nhập diệt. Luận ấy còn ghi thêm: những học thuyết của Pháp tạng bộ đa số lại đồng nhất với Đại chúng bộ. Ngài Khuy cơ còn ghi Pháp tạng bộ nói có 5 pháp tạng: kinh, luật, luận, minh chú, bồ tát. Tương truyền ngài Pháp tạng là 1 trong 5 đệ tử của tôn giả Ưu ba cúc đa.

Trung hoa thì đời Đường sắp đi, do ngài Đạo tuyên khởi lập, Luật tông lấy Tứ phần luật làm căn bản. Lý do vì sao lựa chọn như vậy thì tôi thật chưa rõ, vì chưa đọc đến các bộ sách quan trọng của ngài Đạo tuyên viết về Tứ phần luật, dựng lên Luật tông có học thuyết đàng hoàng. Việc tôi có ý nguyện làm từ lâu là dịch Tỷ kheo giới bản của Tứ phần luật và làm những gì liên hệ đến giới bản ấy. Trong ý nguyện ấy, hôm nay tôi làm một phần của phần việc thứ nhất.

Tỷ kheo giới bản cũng gọi là Giới kinh. Giới kinh ở đây có lúc chỉ cho Tứ phần luật, có lúc chỉ cho Tỷ kheo giới bản của Tứ phần luật, quan trọng hơn nữa có lúc chỉ cho các bài tụng của 7 đức Phật (7 đức Phật có 7 bài tụng là có 7 bản Giới kinh). Riêng đức Bổn sư Thích ca thì 12 năm đầu của thì gian giáo hóa, Giới kinh chính là bài tụng được dịch ra 12 câu. Giới kinh này là cho chư tăng vô sự. Sau 12 năm mới có chư tăng hữu sự, tùy sự chế giới, thành ra Giới kinh có 250 giới nói theo Tứ phần luật.

Tỷ kheo giới bản của Tứ phần luật kể như có 4 bản. Bản 1 là Tứ phần luật tỷ kheo hàm chú giới bản, số hiệu 1806 của Đại tạng kinh bản Đại chính, sẽ được gọi tắt là bản Đạo tuyên. Ngài Đạo tuyên, vị khai lập Luật tông Tứ phần luật, đã biên tập và lược giải giới bản Tỷ kheo của Tứ phần luật, với phong cách một vị tổ sư. Tôi quí và tin bản này nhất, không những lấy làm chính văn mà còn lấy làm tài liệu chính để hiểu và ghi chú chính văn.

Bản 2 có tên Tân san định Tứ phần tăng giới bản, cũng của ngài Đạo tuyên. Bản này nằm trong Vạn 61/267-279. Dầu có bản này, so sánh, tôi vẫn chọn bản 1 làm chính văn.

Bản 3 là Tứ phần luật tỷ kheo giới bản, do ngài Hoài tố biên tập, số hiệu 1429 của Đại tạng kinh bản Đại chính, sẽ được gọi tắt là bản Hoài tố. Còn bản 4 là Tứ phần tăng giới bản, mang số hiệu 1430 của Đại tạng kinh bản Đại chính.

Bản dịch của tôi lấy bản Đạo tuyên làm chính văn. Nhưng chính văn ấy đến loại 7 và loại 8, tức 100 học pháp và 7 diệt tránh, thì lấy bản Hoài tố. Lý do là vì tên của 2 loại này tuy mục lục bản Đạo tuyên có ghi, nhưng chính văn bản ấy không ghi đầy đủ như 6 loại trước. Tên ấy tôi cũng không thấy cần thiết nữa, nên quyết định lấy chính văn bản Hoài tố, ở đấy không ghi tên hay số gì cả, số là của bản Đạo tuyên.

Cũng xin ghi rõ là trong khi dịch, các bản dịch của các hòa thượng Trí thủ và Thiện hòa cũng được tham khảo rất nhiều.

Nên nói thêm về tên giới điều. Trong 8 loại 250 giới, 6 loại đầu có 143 giới thì tên được dịch cả, còn 2 loại 7 và 8 có 107 giới thì, như mới nói, bản Đạo tuyên không ghi đầy đủ nên tôi cũng không dịch. Nhưng điều đáng nói là có ý kiến cho rằng tên giới điều không nên tư vào chính văn giới điều. Nay tôi xét thấy có lắm chỗ chính tên giới điều làm cho giới điều rõ hơn lên, chưa kể cái tên làm cho giới điều như được nói tắt, nói ý chính. Chính sự xét thấy này mà thấy 6 loại trước cần tư tên, còn 2 loại sau sự ấy không cần thiết nữa.

Trong khi dịch tôi vấp 1 chữ. Ấy là chữ thời. Có không dưới 10 chữ. Chữ quan trọng và khó hiểu nhất là ở đoạn kết thúc 13 giới tăng tàn. Dò các bộ luật khác thấy Ngũ phần và Thập tụng viết thị pháp ưng nhĩ (giới này phải thế), Tăng kỳ viết thị sự pháp nhĩ (việc này là thế đấy), Hữu bộ viết thử thị xuất tội pháp (đó là cách giải tội). Như vậy chữ thời có thể hiểu là trường hợp. Thị vị thời đã được dịch đó là trường hợp này. Những chữ thời sau đó đại khái cũng được dịch là trường hợp cả.

(3) [^] Tỷ kheo giới của Tứ phần luật có 250 giới điều, tự chia ra 8 loại, nhắc lại, 8 loại ấy là một, khí, có 4; hai, tăng tàn, có 13; ba, bất định, có; bốn, xả đọa, có 30; năm, đọa, có 90; sáu, hối quá, có 4; bảy, học pháp, có 100; tám, diệt tránh, có 7. Có ý kiến nói loại 8 không phải là giới. Nói như vậy xét ra không chính xác. Loại 8 cũng là giới điều, ở chỗ mỗi giới điều được lập ra do mỗi trường hợp khác nhau, thêm nữa, khi thi hành mỗi giới điều hay nhiều giới điều này rồi mà ai ngoan cố thì bị nghiêm trị hơn nữa.

Nay đem 8 loại 250 giới mà xét chung thì thấy có thể chia ra 3 loại. Loại một, là những giới điều phạm vào thì mất tư cách tỷ kheo, không còn sám hối hay giải tội gì mà cứu vãn được nữa. Loại hai là những giới điều mà phạm vào thì tư cách tỷ kheo chỉ còn một chút sống thừa, phải được cử tội, xử tội và giải tội bởi 20 vị tỷ kheo là ít nhất mới mong cứu vãn. Loại ba đến loại tám là những giới điều chỉ cần được cử tội, xử tội và giải tội bởi 10 cho đến 1 vị tỷ kheo là tư cách tỷ kheo được cứu vãn.

Dầu phân loại như vậy mà 250 giới vẫn chưa mất cái cảm giác vụn vặt, mênh mang, nên nay tôi gặp loại là qui nạp lại, thì 250 giới có thể qui nạp như sau. Trong sự qui nạp này nên chú ý mấy chi tiết. Chi tiết 1 là đánh số giới điều, tức 1/1 là giới 1 của loại 1, cho đến 8/7 là giới 7 của loại 8. Chi tiết 2 là các mục qui nạp thì gặp loại là qui nạp, chứ không có thứ tự hay chính yếu thứ yếu gì ở đây. Chi tiết 3 là những mục ít giới điều thì gọi chung là linh tinh, nhưng có những mục chỉ có 1 giới điều mà vẫn để riêng vì tính cách quan trọng giới điều ấy.

Dưới đây là qui nạp 250 giới điều.

Liên hệ đến dâm: 1/1, 2/1, 2/2, 2/3, 2/4, 2/5, 3/1, 3/2.

Liên hệ đến đạo: 1/2, 4/30.

Liên hệ đến sát: 1/3, 5/19, 5/61, 5/62.

Liên hệ đến vọng: 1/4, 2/8, 2/9, 5/1, 5/2, 5/3, 5/7, 5/8, 5/12, 5/13, 5/68, 5/80.

Liên hệ đến y: 4/1, 4/2, 4/3, 4/4, 4/5, 4/6, 4/7, 4/8, 4/9, 4/10, 4/23, 4/24, 4/27, 4/28, 4/29, 5/60, 5/88, 5/89, 5/90, 7/1, 7/2.

Liên hệ đến cụ: 4/11, 4/12, 4/13, 4/14, 4/15, 4/16, 4/17, 5/87.

Liên hệ đến việc học Luật: 5/71, 5/72, 5/73, 5/75, 5/76.

Liên hệ đến Phật: 7/60, 7/61, 7/62, 7/63, 7/64, 7/65, 7/66, 7/67, 7/68, 7/69, 7/70, 7/71, 7/72, 7/73, 7/74, 7/75, 7/76, 7/77, 7/78, 7/79, 7/80, 7/81, 7/82, 7/83, 7/84, 7/85.

Liên hệ đến sự ăn: 5/31, 5/32, 5/33, 5/34, 5/35, 5/37, 5/38, 5/39, 5/40, 5/41, 5/42, 6/1, 6/2, 6/3, 6/4, 7/26, 7/27, 7/28, 7/29, 7/30, 7/31, 7/32, 7/33, 7/34, 7/35, 7/36, 7/37, 7/38, 7/39, 7/40, 7/41, 7/42, 7/43, 7/44, 7/45, 7/46.

Liên hệ đến tín đồ: 2/12, 7/3, 7/4, 7/5, 7/6, 7/7, 7/8, 7/9, 7/10, 7/11, 7/12, 7/13, 7/14, 7/15, 7/16, 7/17, 7/18, 7/19, 7/20, 7/21, 7/22, 7/23, 7/24, 7/25, 7/48.

Liên hệ đến sự diệt tránh: 8/1, 8/2, 8/3, 8/4, 8/5, 8/6, 8/7.

Liên hệ đến sự thuyết pháp: 7/52, 7/53, 7/54, 7/55, 7/56, 7/57, 7/58, 7/59, 7/86, 7/87, 7/88, 7/89, 7/90, 7/91, 7/92, 7/96, 7/97, 7/98, 7/99, 7/100.

Liên hệ đến tỷ kheo ni: 5/21, 5/22, 5/23, 5/24, 5/25, 5/26, 5/27, 5/28, 5/29.

Liên hệ đến nữ nhân: 5/4, 5/9, 5/30, 5/43, 5/44, 5/45.

Liên hệ đến sự cư xử trong chư tăng với nhau: 4/25, 5/14, 5/15, 5/16, 5/17, 5/36, 5/46, 5/53, 5/55, 5/58, 5/59, 5/63, 5/64, 5/66, 5/69, 5/70, 5/74, 5/77, 5/78, 5/79.

Liên hệ đến rượu: 5/51.

Liên hệ đến người chưa thọ đại giới: 5/5, 5/6, 5/65.

Liên hệ đến sự phá tăng: 2/10, 2/11.

Liên hệ đến sự ngoan cố: 2/13, 5/54.

Liên hệ đến bát: 4/21, 4/22, 7/95.

Linh tinh: của và của báu: 4/18, 4/19, 4/20, 5/82; làm phòng nhà: 2/6, 2/7, 5/20; thuốc: 4/26, 5/47; đào đất: 5/10; chặt cây: 5/11; giường nằm: 5/18; 5/84, 5/85; đùa giỡn: 5/52, 7/93, 7/94; đốt lửa: 5/57; quân đội: 5/48, 5/49, 5/50; giặc: 5/67; vua: 5/81; đi không phải lúc: 5/83; làm ống kim: 5/86; tắm: 5/56; vệ sinh: 7/47, 7/49, 7/50, 7/51.

Nếu qui nạp lại lần nữa thì 250 giới chỉ thuộc vào 2 loại mà thôi, ấy là loại giới luật và loại oai nghi. Loại giới luật là những giới điều cấm tội lỗi thật sự. Loại oai nghi là những giới điều cấm cử động bất xứng. Trong 8 loại của 250 giới, loại 1 là giới luật, loại 7 là oai nghi, còn lại là cả hai.

(4) [^] Cuộc đời như cuộc đời của Phật, nếu có ký sự thì ký sự ấy lượng và chất phải đạt đến tầm cỡ bậc nhất nhì. Thế nhưng ký sự ấy chỉ nằm rải rác trong các kinh luật. Chỉ có một cạnh khía ký sự rất rõ rệt. Đó là sự sinh hoạt giới luật của Phật và chư tăng của Ngài. Sinh hoạt giới luật, từ ngữ này muốn nói sinh hoạt của Phật và chư tăng của Ngài thì toàn bộ là nhắm vào cuộc sống viễn ly ác pháp. Cạnh khía này luật tạng của bộ phái nào cũng là bộ ký sự khá về lượng cũng như chất.

Chư tăng của Phật trong 12 năm đầu gọi là vô sự tỷ kheo: tỷ kheo không có gì rắc rối cả. Giới luật cho chư tăng thì gian này chỉ là bài tụng mà có thể nói vắn tắt là giữ sạch thân miệng ý. Sau 12 năm mới có kẻ hữu sự, mới có rắc rối. Rắc rối nhất là cái nhóm 6 người gọi là lục quần tỷ kheo. Rồi tùy trường hợp rắc rối xảy ra mà có sự qui định ứng phó lại. Mỗi lần ứng phó là thành một giới điều. Như vậy cái số lượng 250 giới điều không phải nhiều nhiệc gì đối với tập thể mà thường xuyên đã có cả ngàn, lại trải qua thì gian ba bốn chục thập kỷ. Nhìn như thế này thì không những thấy 250 không nhiều, mà còn nhìn thấy cái phàm trong cái thánh của chư tăng thời Phật, cái phàm chẳng phàm gì nhiều và nặng.

Giới điều tuy nhiều, mỗi giới điều lại có khai giá (linh động và hạn chế), nhưng căn bản của giới luật chỉ là thiểu dục tri túc. Thiểu dục là ít ham muốn đối với những gì chưa có. Tri túc là biết vừa đủ đối những gì đã có. Có thiểu dục tri túc thì không phạm giới. Giữ giới có nghĩa là thiểu dục tri túc chứ không gì khác.

Nhưng tỷ kheo giới được truyền thọ như thế nào? Tỷ kheo giới được truyền thọ, và lãnh thọ, giữa người sống với người sống, người sống mà phải hiện diện mới đúng phép. Số người hiện diện truyền thọ thường gọi là thập sư. Nghĩa là phải có 10 vị tỷ kheo hiện diện thì việc truyền thọ tỷ kheo giới mới thành tựu. Qui định này cho thấy tỷ kheo giới khi được lãnh thọ rồi thì sẽ được và phải được hộ trì, giám sát, được cử tội, xử tội và giải tội bởi chính những vị tỷ kheo khác mà trong đó có các vị thầy đã truyền thọ.

Không những thọ giới và trì giới dựa trên cái lực của các vị thầy hiện diện, mà sự sám hối khi phạm giới lại càng là như vậy. Phạm giới tỷ kheo thì tùy giới đã phạm mà sám hối trước 1 cho đến 20 vị tỷ kheo khác, nghĩa là cũng người hiện diện đối với người hiện diện chứ không phải khơi khơi mà được.

Thêm nữa, Luật không cho sa di đọc Tỷ kheo giới trước khi được thọ giới ấy. Vì thẩm định sa di có hay không có tư cách thọ và trì Tỷ kheo giới thì không phải sa di tự thẩm định. Mà trách nhiệm là vị thầy. Vị thầy phải giáo dục cho sa di có tư cách thọ và trì Tỷ kheo giới, và thẩm định tư cách âắy. Không phải sa di tự coi Tỷ kheo giới, tự cho mình có tư cách thọ và trì giới ấy mà được. Do vậy, không ở đâu mà cái nghĩa thầy trò được nói cho bằng trong luật. "Hòa thượng tự nhiên sinh tâm thương nhớ đệ tử như con, đệ tử tự nhiên sinh tâm kính trọng hòa thượng như cha, siêng năng dạy bảo, lại thêm tôn kính, thì có khả năng làm cho Phật pháp rộng thêm, làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài" (Ngũ phần, Chính 22/110).

Ngày nay có cái hiện tượng suy đồi, ấy là thọ giới rồi là rồi, thầy không còn biết đến trò, trò chẳng còn biết đến thầy. Đôi bên chẳng còn vương vấn gì đến nhau, không còn mà cũng không muốn giữ một trách nhiệm gì với nhau. Trong khi thọ tỷ kheo giới là con người được sinh ra một lần nữa, sinh ra giới thân tuệ mạng. Ấy vậy mà không mấy ai lấy làm quan trọng sự được sinh ra ấy cả.

(5) [^] Tỷ kheo giới với Bồ tát giới có tương quan không, và tương quan thì như thế nào? Hãy đem 2 giới bản Tỷ kheo của Tứ phần và Bồ tát của Phạn võng mà xét thì thấy có những điều đáng nói sau đây.

Một, tỷ kheo giới truyền thọ do người hiện diện cả. Kiết ma đắc giới là tăng kiết ma. Rồi nếu phạm giới thì cử tội, xử tội và giải tội đều là tăng kiết ma. Sám hối cũng là đối với tăng hiện diện. Bồ tát giới thì cần nhất là vị thầy vừa là giáo thọ vừa là hòa thượng, còn kiết ma đắc giới là tác bạch thập phương chư Phật Bồ tát, nhưng sám hối thì cực kỳ khó khăn.

Hai, bồ tát giới lấy sự phát bồ đề tâm làm căn bản. Có bồ đề tâm thì có đủ giới pháp, mất bồ đề tâm thì giới pháp không những dễ vi phạm, mà có giữ cũng không có ý nghĩa vì vô thượng bồ đề mà giữ. Tỷ kheo giới thì tách rời tất cả thân nghiệp và ngữ nghiệp cần tách rời (Câu xá, Chính 29/73), nên thân và miệng mà tội lỗi hay bất xứng thì đã là phạm giới.

Ba, tỷ kheo giới thì người lãnh thọ bị khảo sát giá nạn rất kyպ phải là người mà quá khứ, bề trong, bề ngoài và hoàn cảnh đều tương đối coi được mới được thọ giới. Bồ tát giới không cần đến như vậy, bởi vì trừ tỷ kheo bồ tát giới là tăng bảo, mọi bề ngoài tôn nghiêm đã phải có khi thọ tỷ kheo giới rồi, còn mọi người ai cũng có thể được thọ cái giới pháp bản nguyên thanh tịnh của mình, miễn là có thể phát bồ đề tâm và hiểu được tiếng nói của vị thầy truyền giới.

Bốn, tỷ kheo giới có cái lý do giữ giới là để tránh đời chê ghét (tị thế cơ hiềm). Chính cái lý do này là cái phần lợi tha của bồ tát giới. Và chính trong ý nghĩa này mà nói là giáo hóa chúng sinh, mà nói là duy trì Phật pháp.

(6) [^]Điều phải nói ở đây là sự phá tăng. Phá tăng là phá kiết ma tăng và phá pháp luân tăng. Phá kiết ma tăng là dầu chỉ có 4 vị tỷ kheo mà 1 người không đồng chúng hòa hợp hay tập hợp, thì sự kiết ma bất thành, mọi tăng sự, kể cả sự thuyết giới, đều không thể cử hành. Phá pháp luân tăng là dầu chỉ có 9 tỷ kheo mà 1 người đứng ra chia rẽ, kéo theo mình 4 người (để đủ số tỷ kheo làm kiết ma) rồi tự xưng giáo chủ, xướng ra giáo pháp và lập ra giáo đoàn riêng, nói cách khác là biệt lập Phật giáo riêng (hay khuynh đảo tổ chức của Phật giáo làm thành tổ chức của mình).

Phá tăng, như vậy, là phá hoại Phật giáo. Theo tôn giả Thế thân, loại tội nặng nhất là 5 tội vô gián, trong 5 tội ấy tội phá tăng, nhất là phá pháp luân tăng, là tội nặng nhất, vì "thương tổn pháp thân của Phật". Phá tăng như vậy bản thể là cuống ngữ. Kẻ phá tăng phải là tỷ kheo, không phải tại gia hay tỷ kheo ni mà làm được, là kẻ tịnh hạnh chứ không phải người phạm giới, bởi vì phạm giới thì nói không uy tín (Câu xá, Chính 29/93).

Tôn giả Thế thân nói còn thiếu một điều, ấy là những kẻ này hay lợi dụng chính quyền hoặc để cho chính quyền lợi dụng. Kẻ ấy, xưa kia, thời Phật là Đề bà. Ngày nay, thừa kế Đề bà cũng không phải thiếu người. Và cái tội phá tăng nặng đến nỗi phạm vào thì hết còn nói đến thọ giới trì giới gì nữa. Ấy thế nhưng có điều lạ là tỷ kheo giới cũng như bồ tát giới đều đã không nghiêm khắc đúng mức về tội này.

Bồ tát giới thì những gì liên quan đến sự phá tăng, thí dụ các điều 47 và 48, chỉ để vào loại giới pháp nhẹ. Tỷ kheo giới thì như các điều 2/10 và 2/11, chỉ xếp vào loại tăng tàn, mặc dầu trường hợp có ra 2 giới điều ấy là chính sự phá tăng của Đề bà.

Ngày trước, khi dịch giải Bồ tát giới Phạn võng, tôi đã muốn nêu điều này lên. Nhưng rồi lúc đó tôi không làm. Nay nêu lên điều này không phải như một nghi vấn, mà là sự phá tăng ngày nay có chứ không phải không có, vậy mà giới pháp không lên án đúng mức thì làm sao cảnh tỉnh những kẻ Đề bà mới, những kẻ tùng đảng với Đề bà mới ?

Phần Đầu Tỷ Kheo Giới [^]

Cúi đầu kính lạy
chư Phật, Phật pháp
và Tỷ kheo tăng.
Nay tụng Giới kinh (1)
là để làm cho
Phật pháp thường còn.
Giới như biển cả
không có bờ mé,
lại như ngọc báu
cầu hoài không chán.
Muốn giữ tài sản
của các Thánh giả (2)
đại chúng họp lại
nghe tôi tụng Giới.
Muốn trừ bốn thứ
gọi là tội khí,
muốn diệt mười ba
tội lỗi tăng tàn,
muốn ngăn ba mươi
tội lỗi xả đọa (3) ,
đại chúng họp lại
nghe tôi tụng Giới.
Đức Tỳ bà thi,
cùng đức Thi khí,
đức Tỳ xá phù,
đức Câu lưu tôn,
đức Câu na hàm,
cùng đức Ca diếp
và đức Thích ca,
chư Phật như vậy
đã thuyết Giới kinh (4) .
Nay tôi tụng lại
Giới kinh như vậy,
đại chúng cùng nghe.
Ví như có người
chân đã thương tổn
thì không thể nào
tự đi đến đâu,
người nào phá giới
thì cũng như vậy
không thể sinh trong
chư thiên nhân loại.
Muốn sinh chư thiên
hay sinh nhân loại,
thì phải giữ lấy
đôi chân giới pháp,
đừng để có điều
vi phạm thương tổn.
Như người đánh xe
đi vào đường hiểm
thì lo xe ấy
rơi chốt gãy trục,
người mà phá giới
thì cũng như vậy,
đối diện cái chết
lòng đầy lo sợ.
Như người soi gương
thấy đẹp thì thích
thấy xấu thì rầu,
tụng giới cũng vậy
giới toàn thì mừng
giới hỏng thì lo.
Hai quân đánh nhau
ai gan thì tiến
ai khiếp thì thoái,
tụng giới cũng vậy
trong sạch: yên tâm
dơ bẩn: lo sợ.
Trong cả mọi người
vua là hơn hết,
trong các dòng nước
biển là hơn hết,
trong các sao đêm
trăng là hơn hết,
trong các vị thánh
Phật là hơn hết,
trong các giới luật (5)
Giới kinh hơn hết,
nên đức Thế tôn
đã qui định rằng
cứ mỗi nửa tháng
phải tụng một lần.
Tăng hòa hợp (6) không? Đáp: tăng hòa hợp.

Tăng tập hợp chưa? Đáp: tăng tập hợp.

Người chưa thọ đại giới đã ra chưa? Nếu có thì bảo ra và đáp: người chưa thọ đại giới đã ra; nếu không thì đáp: trong đây không có người chưa thọ đại giới.

Các vị tỷ kheo không đến đây có nói dữ dục và thanh tịnh (7) không? Nếu có thì đáp có và thưa đúng cách, nếu không thì đáp trong đây không có người nói dữ dục và thanh tịnh.

Chúng tỷ kheo ni phái ai đến? Nếu có thì đáp có và thưa đúng cách, nếu không thì đáp trong đây chúng tỷ kheo ni không phái ai đến.

Hôm nay tăng hòa hợp để làm gì? Đáp: để kiết ma tụng giới.

Đại đức tăng nghe cho, hôm nay là ngày 15, ngày tăng bố tát tụng giới, nếu tăng thấy đến lúc (8) , tăng chấp thuận, thì cử hành bố tát tụng giới. Xin tác bạch như vậy. Tác bạch thành không? Đáp: thành (9) .

Tỷ Kheo Giới: Lời Mở Đầu [^]

Bạch chư đại đức, nay tôi sắp tụng Ba la đề mộc xoa. Chư vị tỷ kheo cùng tập hợp một chỗ. Chư vị hãy lắng nghe, và nhớ nghĩ cho khéo. Nếu tự biết có phạm giới thì phải tự sám hối, không phạm giới thì hãy im lặng. Vì im lặng mà biết chư đại đức thanh tịnh. Nếu có ai hỏi thì cũng trả lời như vậy. Thế nên vị tỷ kheo ở trong đại chúng được hỏi đến lần thứ 3, và nhớ nghĩ mình có tội, mà không sám hối, thì bị tội cố ý nói dối. Mà nói dối thì Phật đã dạy là sự cản trở thánh đạo (10) . Nếu vị tỷ kheo nhớ nghĩ mình có tội và muốn được thanh tịnh thì phải sám hối. Sám hối thì yên vui.

Bạch chư đại đức, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh. Nay xin hỏi chư đại đức, trong lời nói đầu ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong lời nói đầu ấy chư vị thanh tịnh cả, vì chư vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc (11) như vậy.

4 Giới Khí [^]

Bạch chư đại đức, 4 giới ba la di (12) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong giới kinh.

Thứ 1 giới đại dâm dục.- Nếu tỷ kheo đồng giới pháp với tỷ kheo khác (12b) , không xả giới, nhưng giới kém mà không tự hối, phạm vào sự bất tịnh (13) cho đến cùng với súc vật, thì phạm ba la di của tỷ kheo, không còn được sống chung (14) với chư tăng.

Thứ 2 giới đại trộm cắp. - Nếu tỷ kheo ở trong xóm làng hay nơi vắng vẻ, lấy của người ta không cho với ý thức ăn trộm; tùy tội lấy của không cho mà bị vua, hay đại thần của vua, bắt, giết, trói, đuổi ra khỏi xứ, mắng rằng anh là giặc, anh ngu si, anh không biết gì, thì phạm ba la di của tỷ kheo, không còn được sống chung với chư tăng.

Thứ 3 giới đại sát hại. - Nếu tỷ kheo cố ý tự tay sát hại mạng người, hoặc cầm dao đưa cho người, hoặc khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, rằng quái lạ, anh kia, sống khốn nạn như vậy làm gì, thà chết, đừng sống; với ý thức như vậy mà nghĩ mọi cách để khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, thì phạm ba la di của tỷ kheo, không còn được sống chung với chư tăng.

Thứ 4 giới đại vọng ngữ .- Nếu tỷ kheo thật không biết gì mà tự xưng tôi được pháp của bậc thượng nhân, tôi đã nhập vào pháp siêu việt của thánh trí, tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy; qua thì gian khác, hoặc được hỏi hoặc không được hỏi, mà muốn tự thanh tịnh nên nói rằng tôi thật không thấy không biết gì mà nói biết nói thấy, thì, trừ tăng thượng mạn (15) , phạm ba la di của tỷ kheo, không còn được sống chung với chư tăng.

Bạch chư đại đức, tôi đã nói 4 giới ba la di. Nếu tỷ kheo phạm vào mỗi một ba la di, thì không còn được sống chung với chư tăng. Như khi chưa thọ đại giới, thọ đại giới rồi mà vi phạm thì cũng vậy. Nên tỷ kheo bị tội ba la di thì không nên sống chung với chư tăng. Vậy nay xin hỏi chư đại đức, trong 4 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 4 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.



13 Giới Tăng Tàn [^]

Bạch chư đại đức, 13 giới tăng già bà thi sa (16) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.

Thứ 1 giới cố làm xuất tinh.- Nếu tỷ kheo cố ý lộng âm xuất tinh (17) thì, trừ chiêm bao, phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 2 giới chạm thân nữ nhân.- Nếu tỷ kheo với ý thức dâm dục mà chạm nhau với thân nữ nhân, hoặc nắm tay, hoặc nắm tóc, hoặc chạm vào mỗi một thân phần, thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 3 giới nói năng thô tục (18) .- Nếu tỷ kheo với ý thức dâm dục mà nói năng thô tục dâm đãng với nữ nhân; nói năng thô tục dâm đãng thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 4 giới đòi hiến dâm dục (19) .- Nếu tỷ kheo với ý thức dâm dục mà đối diện với nữ nhân tự ca tụng mình, rằng cô em, tôi tu phạn hạnh, giữ giới, tinh tiến, tu các thiện pháp; cô em hãy đem sự dâm dục mà hiến cho tôi, hiến như vậy là hơn hết, thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 5 giới làm người mai mối.- Nếu tỷ kheo qua lại đôi bên để làm mai mối, đem ý người nam nói với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, để làm cho họ lấy nhau hay tư thông với nhau, thì dầu chỉ chốc lát cũng phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 6 giới làm nhà (20) quá mức.- Nếu tỷ kheo tự tìm cách làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho mình, thì phải làm đúng mức. Mức ở đây là dài bằng 12 gang tay của Phật, rộng bằng 7 gang tay của Ngài. Lại phải thỉnh chư tỷ kheo chỉ định nơi chỗ. Chư tỷ kheo chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không chướng ngại. Nếu tỷ kheo nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà tự tìm cách làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho mình, không thỉnh chư tỷ kheo chỉ định nơi chỗ, lại làm quá mức, thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 7 giới không thỉnh chỉ định (21) .- Nếu tỷ kheo muốn làm nhà lớn mà có thí chủ, làm cho mình, thì phải thỉnh chư tỷ kheo đến chỉ định nơi chỗ. Chư tỷ kheo nên chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không chướng ngại. Nếu tỷ kheo nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà làm nhà lớn, có thí chủ, làm cho mình, nhưng không thỉnh chư tỷ kheo đến chỉ định nơi chỗ, thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 8 giới vu khống phỉ báng (22) .- Nếu tỷ kheo vì tức giận, đối với vị tỷ kheo không phạm tội ba la di mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng vị ấy phạm tội ba la di, phỉ báng với ý thức muốn phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy; rồi trong thì gian khác, được hỏi hay không được hỏi, tỷ kheo biết đó là sự phỉ báng vô căn cứ, và nói rằng vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy. Tỷ kheo phỉ báng như vậy thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 9 giới xuyên tạc phỉ báng (23) .- Nếu tỷ kheo vì tức giận nên lấy một cạnh khía của việc khác, đối với vị tỷ kheo không phạm ba la di mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng rằng phạm tội ba la di, với ý thức phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy; đến thì gian khác, được hỏi hay không được hỏi, tỷ kheo ấy biết mình lấy một cạnh khía của việc khác, tự nói vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy, thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 10 giới phá tăng hòa hợp (24) .- Nếu tỷ kheo muốn phá hoại tăng hòa hợp (25) nên hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp, chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Các vị tỷ kheo nên can gián tỷ kheo ấy, rằng đại đức, đừng phá hoại tăng hòa hợp, đừng hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp, đừng chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Đại đức, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Tỷ kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị tỷ kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để tỷ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng già ba thi sa.

Thứ 11 giới hỗ trợ phá tăng (26) .- Nếu tỷ kheo ấy có phe cánh, một tỷ kheo, hai tỷ kheo, ba tỷ kheo cho đến vô số tỷ kheo; những tỷ kheo phe cánh này nói với các vị tỷ kheo, rằng chư đại đức, xin đừng can gián tỷ kheo ấy, tỷ kheo ấy là tỷ kheo nói đúng giáo pháp, tỷ kheo nói đúng giới luật, tỷ kheo ấy nói chúng tôi ưa thích, tỷ kheo ấy nói chúng tôi chấp nhận. Các vị tỷ kheo trả lời : các đại đức, đừng nói như vậy, rằng tỷ kheo ấy là tỷ kheo nói đúng giáo pháp, tỷ kheo nói đúng giới luật, tỷ kheo ấy nói chúng tôi ưa thích, tỷ kheo ấy nói chúng tôi chấp nhận. Bởi vì tỷ kheo ấy không phải là tỷ kheo nói đúng giáo pháp, không phải là tỷ kheo nói đúng giới luật. Các đại đức, đừng có ý muốn phá hoại tăng hòa hợp ; các đại đức, hãy thích thú tăng hòa hợp. Các đại đức, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Những tỷ kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị tỷ kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để những tỷ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 12 giới hoen ố tín đồ (27) .- Nếu tỷ kheo sống trong xóm làng hay thành thị mà làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu (28) , làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Các vị tỷ kheo nói với tỷ kheo ấy, rằng đại đức, đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe; đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu thì nay hãy đi xa khỏi xóm làng này, đừng nên ở đây nữa. Tỷ kheo ấy nói với các vị tỷ kheo, với lời nói như vầy: chư đại đức, các vị có tham, có sân, có si, có sợ; có cái việc những tỷ kheo đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Các vị tỷ kheo can rằng, đại đức, đừng nói như vậy, rằng chư tỷ kheo có tham, có sân, có si, có sợ, có cái việc những tỷ kheo đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Bởi vì chư tỷ kheo không tham, không sân, không si, không sợ. Đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Tỷ kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị tỷ kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để tỷ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng già bà thi sa.

Thứ 13 giới ngoan cố chống cự (29) .- Nếu tỷ kheo tính tình ngoan cố, không nghe ai hết; trong giới luật, các vị tỷ kheo đã can gián đúng phép mà bản thân tỷ kheo ấy không chịu sự can gián ấy, bằng cách nói rằng, chư đại đức, đừng hướng về tôi mà nói tôi tốt hay tôi xấu, tôi cũng không hướng về chư đại đức mà nói các ngài tốt hay các ngài xấu. Chư đại đức hãy thôi đi, đừng luôn luôn can gián tôi. Các vị tỷ kheo can gián tỷ kheo ấy, rằng đại đức, đừng nên chính mình không chịu ai can gián. Đại đức nên chính mình chịu can gián. Đại đức hãy can gián chư tỷ kheo một cách đúng phép, chư tỷ kheo cũng can gián đại đức một cách đúng phép. Làm như vậy thì đệ tử của Phật được tăng ích nhờ can gián cho nhau, chỉ dạy cho nhau, sám hối với nhau. Tỷ kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị tỷ kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để tỷ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm tăng già bà thi sa.

Bạch chư đại đức, tôi đã nói 13 giới tăng già bà thi sa mà 9 giới trước thì mới phạm là thành tội, 4 giới sau thì sau lần can gián thứ 3 mới thành tội. Nếu tỷ kheo phạm mỗi một giới, biết mình phạm mà cố che giấu, thì chư tăng phải buộc tỷ kheo ấy thi hành phép sống riêng (30) . Thi hành phép sống riêng rồi phải thi hành thêm phép hoan hỷ (31) trong 6 đêm ngày. Thi hành phép hoan hỷ rồi chư tăng giải tội cho. Phải giữa 20 vị tỷ kheo mà giải tội cho tỷ kheo ấy; nếu thiếu 1 vị, không đủ 20 vị tỷ kheo, thì có giải tội đi nữa, tội của tỷ kheo ấy cũng không giải được, mà chư tăng cũng đáng khiển trách. Đó là trường hợp (32) này. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 13 giới tăng già bà thi sa ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 13 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

2 Giới Bất Định [^]

Bạch chư đại đức, 2 giới bất định (33) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.

Thứ 1 giới ngồi ở chỗ khuất .- Nếu tỷ kheo cùng nữ nhân ngồi riêng ở chỗ khuất, chỗ che, chỗ ngăn, chỗ có thể hành dâm, mà nói những lời phi giới pháp. Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm (34) , nói tỷ kheo ấy phạm 1 trong 3 tội sau đây, tội ba la di, tội tăng già bà thi sa, tội ba dật đề ; tỷ kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì phải trị theo 1 trong 3 tội sau đây, tội ba la di, tội tăng già bà thi sa, tội ba dật đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội tỷ kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.

Thứ 2 giới ngồi ở chỗ trống.- Nếu tỷ kheo cùng nữ nhân ngồi ở chỗ trống, chỗ không thể hành dâm, mà nói thô tục. Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói tỷ kheo ấy phạm 1 trong 2 tội sau đây, tội tăng già bà thi sa, tội ba dật đề; tỷ kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì phải trị theo 1 trong 2 tội sau đây, tội tăng già bà thi sa, tội ba dật đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội tỷ kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.

Bạch chư đại đức, tôi đã nói 2 giới bất định. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 2 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 2 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

30 Giới Xả Đọa [^]

Bạch chư đại đức, 30 giới ni tát kỳ ba dật đề (35) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.

Thứ 1 giới cất y quá hạn.- Nếu tỷ kheo 3 y (36) đã hoàn chỉnh, y công đức (37) đã xả, mà cất giữ trường y (38) , thì không làm tịnh thí (39) cũng được cất giữ, nhưng quá 10 ngày thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 2 giới rời y mà ngủ.- Nếu tỷ kheo 3 y hoàn chỉnh, y công đức đã xả, mà trong 3 y rời 1 y ngủ khác chỗ (39b) , thì, trừ được tăng kiết ma (40) cho phép, phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 3 giới cất vải quá hạn.- Nếu tỷ kheo 3 y hoàn chỉnh (41) , y công đức đã xả, nhưng tỷ kheo ấy được vải phi thời, vậy cần thì cứ nhận, nhận rồi may y cho mau thành. Nếu vải đủ thì tốt, nếu vải không đủ thì được phép cất lại 1 tháng, chờ cho đủ vải. Nếu cất lại quá hạn ấy thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 4 giới lấy y không thân (42) .- Nếu tỷ kheo lấy y của tỷ kheo ni không phải thân quyến của mình, thì, trừ sự trao đổi, phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 5 giới bảo giặt y cũ (43) .- Nếu tỷ kheo bảo tỷ kheo ni không phải thân quyến của mình giặt y cũ, hoặc nhuộm hoặc vỗ, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 6 giới xin người y mới (44) .- Nếu tỷ kheo xin y mới nơi cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình, thì, trừ trường hợp khác, phạm ni tát kỳ ba dật đề. Trường hợp khác là nếu y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, như vậy gọi là trường hợp khác.

Thứ 7 giới lấy vải quá phận.- Nếu tỷ kheo y bị mất, bị cướp, bị cháy, bị trôi, và nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình tự ý xin cho nhiều vải, thì tỷ kheo ấy nên nhận vải ấy theo sự biết vừa đủ. Nếu nhận nhiều hơn thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 8 giới xin thêm tiền y (45) .- Nếu tỷ kheo có cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho tỷ kheo ấy, nói rằng sắm số tiền may y như vậy để cúng cho tỷ kheo tên như vậy. Tỷ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý (45b) vậy mà vì muốn được y tốt nên đến nhà cư sĩ, nói như thế này: tốt lắm, cư sĩ, hãy vì tôi mà mua sắm cái y như vậy cho tôi. Như vậy mà được y thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 9 giới khuyên chung tiền lại (46) .- Nếu tỷ kheo có 2 cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho tỷ kheo ấy, nói rằng mua y như vậy để cúng cho tỷ kheo tên như vậy. Tỷ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, vậy mà vì muốn được y tốt nên đến 2 nhà cư sĩ nói như vầy: tốt lắm, cư sĩ, hãy sắm tiền mua y như vậy, chung nhau mà mua cho tôi 1 cái y. Như vậy mà được y thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 10 giới đòi y quá hạn.- Nếu tỷ kheo có vua, đại thần, bà la môn, cư sĩ và vợ cư sĩ, phái người đưa số tiền sắm y đến cho tỷ kheo ấy, nói rằng hãy cầm tiền sắm y này đến đưa cho vị tỷ kheo tên như vậy. Người được phái đến chỗ tỷ kheo ấy, nói với tỷ kheo ấy, rằng bạch đại đức, nay con đem tiền sắm y đến cho ngài, xin ngài nhận lấy. Tỷ kheo ấy nói như thế này với người được phái, rằng tôi không nên nhận số tiền sắm y này; nếu khi tôi cần y thì phải đúng và thanh tịnh mới nhận được. Người được phái nói với tỷ kheo ấy, rằng bạch đại đức, ngài có người giúp việc không? Tỷ kheo ấy nói có; có người ở trong chùa kia, có người nam cư sĩ kia, họ là những người giúp việc của các tỷ kheo, thường giúp việc cho các ngài. Bấy giờ người được phái đi đến nơi người giúp việc, giao số tiền sắm y, rồi trở lại chỗ tỷ kheo ấy, nói như vầy: bạch đại đức, người giúp việc tên như vậy, mà ngài đã chỉ, con đã giao cho người ấy số tiền sắm y. Khi nào đại đức thấy đúng lúc thì xin ngài đến người ấy, sẽ sắm được y. Tỷ kheo ấy khi cần y thì nên đến người giúp việc mà, lần thứ hai và lần thứ ba, nhắc cho người ấy nhớ, bằng cách nói rằng tôi cần y; nếu lần thứ hai và lần thứ ba nhắc cho người ấy nhớ mà được y thì tốt. Nếu không được y thì lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, hãy yên lặng đứng trước người ấy; nếu lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, yên lặng đứng trước người ấy mà được y thì tốt. Nếu không được y mà đòi quá giới hạn nói trên để cho được y, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề. Nếu không được y thì tự mình đi hay phái người đi, đến nơi người cho tiền sắm y mà nói, rằng trước đây người phái người đem tiền sắm y đến cho tôi, tỷ kheo tên như vậy; nhưng rốt cuộc tôi không được y, vậy người hãy đi lấy về, đừng để mất đi. Đó là trường hợp có thể làm.

Thứ 11 giới ngọa cụ tơ tằm.- Nếu tỷ kheo kiếm tơ tằm xen với tơ lụa mà làm ngọa cụ mới, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 12 giới ngọa cụ lông đen.- Nếu tỷ kheo lấy lông dê mới và toàn đen mà làm ngọa cụ mới, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 13 giới ngọa cụ lông trắng.- Nếu tỷ kheo làm ngọa cụ mới thì nên dùng lông dê mà 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu lẫn lộn; nếu tỷ kheo ấy không dùng 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu lẫn lộn (46b) mà làm ngọa cụ mới, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 14 giới ngọa cụ còn mới (47) .- Nếu tỷ kheo thì làm ngọa cụ mới, phải dùng đến 6 năm. Nếu dưới 6 năm, không xả bỏ cái cũ mà thay vào đó làm cái mới, thì, trừ tăng kiết ma cho phép, phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 15 giới tọa cụ toàn mới (48) .- Nếu tỷ kheo làm tọa cụ mới thì phải lấy 1 miếng tọa cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ mới để làm cho hỏng màu sắc đi. Nếu làm tọa cụ mới mà không lấy 1 miếng tọa cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ mới để làm cho hỏng màu sắc đi, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 16 giới cầm lông quá hạn (49) .- Nếu tỷ kheo đi đường được lông dê, không có ai cầm giúp, thì mình được phép cầm lấy, nhưng cầm đi cho đến 3 do tuần mà thôi. Nếu không có ai cầm giúp, mình tự cầm lấy mà đi quá 3 do tuần, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 17 giới nhờ giặt lông dê (50) .- Nếu tỷ kheo bảo tỷ kheo ni không phải thân quyến giặt, nhuộm và vỗ giúp lông dê, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 18 giới cầm lấy tiền của (51) .- Nếu tỷ kheo tự tay cầm lấy tiền, cầm lấy bạc vàng, hoặc bảo người cầm lấy, hoặc nhận lấy bằng cách bảo để xuống mặt đất, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 19 giới đổi chác tiền của (52) .- Nếu tỷ kheo mà đổi chác (53) các thứ tiền và của báu, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 20 giới buôn bán các thứ.- Nếu tỷ kheo mà mua rẻ bán đắt mọi thứ, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 21 giới cất bát quá hạn.- Nếu tỷ kheo cất giữ trường bát (53b) mà không tịnh thí, thì chỉ được phép cất giữ 10 ngày. Quá thì hạn ấy thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 22 giới kiếm bát quá phận.- Nếu tỷ kheo dùng cái bát chưa đủ 5 chỗ hàn bịt, bát ấy cũng chưa rỉ nước, vậy mà thay vào đó đi tìm bát mới cho đẹp, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề. Tỷ kheo ấy nên đến giữa chư tăng mà xả bỏ bát mới ấy, và chư tăng tuần tự lấy cái bát của người thấp nhất (53c) đưa cho tỷ kheo ấy dùng, và dùng cho đến bể. Đó là đúng trường hợp.

Thứ 23 giới kiếm chỉ dệt y (54) .- Nếu tỷ kheo tự xin chỉ dệt, bảo thợ dệt không phải thân quyến của mình dệt y giúp, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 24 giới bảo thợ dệt thêm (55) .- Nếu tỷ kheo có cư sĩ và vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt y cho tỷ kheo ấy. Tỷ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, lại đi đến chỗ thợ dệt, bảo rằng y này là dệt cho tôi, vậy anh dệt giúp cho thật đẹp, dệt cho rộng và bền, tốn thêm nhiều ít gì tôi cũng sẽ trả cho anh. Tỷ kheo ấy trả thêm tiền dầu chỉ đáng giá một bữa ăn mà được y, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 25 giới đoạt lấy y lại.- Nếu tỷ kheo trước cho y tỷ kheo khác, sau vì tức giâển nên tự đoạt lại, hay bảo người đoạt, và rằng hãy trả y lại cho tôi, tôi không cho ông nữa. Tỷ kheo kia trả y, mà tỷ kheo ấy lấy y, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 26 giới cất thuốc quá hạn (56) .- Nếu tỷ kheo có bịnh, thì thuốc dư như sữa tô, dầu, sữa tô tươi, mật ong, đường phèn, được dùng trong thì hạn 7 ngày. Nếu quá 7 ngày mà còn dùng thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 27 giới khăn tắm trước hạn (57) .- Nếu tỷ kheo thì mùa xuân còn 1 tháng nên kiếm khăn tắm mưa, còn nửa tháng nên dùng mà tắm. Nếu tỷ kheo mà trước kiết hạ hơn 1 tháng đã kiếm khăn tắm mưa, trước kiết hạ hơn nửa tháng đã dùng mà tắm (58) , thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 28 giới cất y cúng gấp (59) .- Nếu tỷ kheo còn 10 ngày nữa thì hết kiết hạ 3 tháng (60) , chư tỷ kheo được phép nhận y cúng vội vàng. Tỷ kheo ấy biết là y cúng vội vàng thì nên nhận, nhận rồi được cất giữ trong thì hạn của y ấy (61) . Nếu cất giữ quá thì hạn ấy thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 29 giới rời y quá hạn (62) .- Nếu tỷ kheo kiết hạ 3 tháng đã xong, sau đó 1 tháng ca đề (63) cũng hết, đến ở chỗ a lan nhã (64) , mà là chỗ có sự nghi ngại, khiếp sợ. Tỷ kheo ấy ở chỗ như vậy, thì trong 3 y, muốn thì gửi để 1 y trong nhà thôn xóm. Tỷ kheo ấy có lý do như vậy thì được phép rời y mà ngủ đến 6 đêm. Rời quá thì hạn ấy thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Thứ 30 giới xoay vật chư tăng (65) .- Nếu tỷ kheo biết đó là vật người ta muốn hiến cúng cho chư tăng, mà mình tìm cách xoay lại hiến cúng cho mình, thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

Bạch chư đại đức, tôi đã nói 30 giới ni tát kỳ ba dật đề. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 30 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 30 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

90 Giới Đọa [^]

Bạch chư đại đức, 90 giới ba dật đề (66) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.

Thứ 1 giới cố ý nói dối.- Nếu tỷ kheo biết (67) mà nói dối, thì phạm ba dật đề.

Thứ 2 giới chưởi mắng thành phần (68) .- Nếu tỷ kheo đem thành phần xã hội ra mà chưởi mắng, thì phạm ba dật đề.

Thứ 3 giới nói để ly gián (69) .- Nếu tỷ kheo nói ly gián thì phạm ba dật đề.

Thứ 4 giới ngủ cùng một nhà (70) .- Nếu tỷ kheo cùng nữ nhân ngủ một nhà thì phạm ba dật đề.

Thứ 5 giới ngủ quá thì hạn (71) .- Nếu tỷ kheo cùng ngủ với người chưa thọ đại giới mà quá 2 đêm, đến đêm thứ 3 thì phạm ba dật đề.

Thứ 6 giới đọc tụng ồn náo (72) .- Nếu tỷ kheo cùng với người chưa thọ đại giới đọc tụng kinh pháp một cách ồn náo thì phạm ba dật đề.

Thứ 7 giới nói tội lỗi nặng.- Nếu tỷ kheo biết người có tội lỗi nặng mà đem nói với người chưa thọ đại giới, thì, trừ tăng kiết ma sai bảo, phạm ba dật đề.

Thứ 8 giới nói thật đắc đạo (73) .- Nếu tỷ kheo nói với người chưa thọ đại giới, rằng tôi được cái pháp hơn người, tôi thấy như vậy, tôi biết như vậy ; nói thật như vậy thì phạm ba dật đề.

Thứ 9 giới một mình thuyết pháp (74) .- Nếu tỷ kheo thuyết pháp cho nữ nhân mà quá năm sáu lời (75) , thì, trừ sự có mặt của nam tử trí thức, phạm ba dật đề.

Thứ 10 giới đào cuốc đất đai.- Nếu tỷ kheo tự tay đào đất hay bảo người đào đất thì phạm ba dật đề.

Thứ 11 giới chặt phá cây sống.- Nếu tỷ kheo chặt phá cây cối, có nghĩa phá hủy chỗ ở của quỉ thần và sinh vật (76) , thì phạm ba dật đề.

Thứ 12 giới nói làm bực mình.- Nếu tỷ kheo bày đặt nói quanh để làm người khác bực mình, thì phạm ba dật đề.

Thứ 13 giới ghét mắng tri sự.- Nếu tỷ kheo ghét mắng chức sự của chư tăng thì phạm ba dật đề.

Thứ 14 giới trải đồ đất trống (77) .- Nếu tỷ kheo đem đồ của chư tăng như giường giây (78) , giường cây, đồ nằm và nệm ngồi, tự sắp ra trên mặt đất trống, hay bảo người sắp ra, dùng rồi bỏ đó mà đi, không tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm ba dật đề.

Thứ 15 giới trải đồ chỗ che (79) .- Nếu tỷ kheo sắp đồ nằm của chư tăng ra trong tăng phòng, tự mình sắp ra hay bảo người sắp ra, rồi hoặc ngồi hoặc nằm, nhưng khi đi thì không tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm ba dật đề.

Thứ 16 giới cưỡng chiếm chỗ nằm (80) .- Nếu tỷ kheo biết chỗ của tỷ kheo ở trước, mình đến sau mà cưỡng chiếm ở giữa, trải đồ nằm ra ngủ nghỉ, với ý nghĩ rằng nếu tỷ kheo ở trước hiềm chật quá thì sẽ tự tránh mình mà đi. Ấy là muốn làm như thế chứ không có lý do gì khác. Phi uy nghi như vậy thì phạm ba dật đề.

Thứ 17 giới lôi ra khỏi phòng.- Nếu tỷ kheo tức giận, không ưa tỷ kheo khác, nên trong phòng hay trong nhà của chư tăng mà tự mình lôi ra hay bảo người lôi ra, thì phạm ba dật đề.

Thứ 18 giới ngồi giường sút chân.- Nếu tỷ kheo ở trong phòng hay trên gác, mà ngồi hay nằm trên giường giây hay giường cây sút chân, thì phạm ba dật đề.

Thứ 19 giới dùng nước có trùng.- Nếu tỷ kheo biết nước có trùng mà tự đem dội trên đất trên cỏ, hay bảo người dội, thì phạm ba dật đề.

Thứ 20 giới lợp nhà quá mức.- Nếu tỷ kheo làm phòng hay nhà lớn, có cửa cánh, cửa sổ, và những đồ trang trí khác, thì chỉ bảo lợp tranh chừng hai hay ba lớp. Lợp quá thì phạm ba dật đề.

Thứ 21 giới tự đi dạy ni.- Nếu tỷ kheo chư tăng không sai phái mà tự đi giáo thọ cho tỷ kheo ni, thì phạm ba dật đề.

Thứ 22 giới thuyết pháp đến tối (81) .- Nếu tỷ kheo được chư tăng sai phái đi giáo thọ cho tỷ kheo ni, mà đi đến trời tối thì phạm ba dật đề.

Thứ 23 giới phỉ báng giáo thọ.- Nếu tỷ kheo nói với các tỷ kheo khác bằng lời nói như vầy: các tỷ kheo chỉ vì sự ăn uống mà đi giáo thọ cho tỷ kheo ni, thì phạm ba dật đề.

Thứ 24 giới đem y cho ni (82) .- Nếu tỷ kheo đem y cho tỷ kheo ni không phải thân quyến của mình, thì, trừ sự trao đổi, phạm ba dật đề.

Thứ 25 giới may y cho ni (83) .- Nếu tỷ kheo may y cho tỷ kheo ni không phải thân quyến của mình thì phạm ba dật đề.

Thứ 26 giới cùng ngồi với ni.- Nếu tỷ kheo cùng với tỷ kheo ni ngồi ở chỗ khuất, ngăn, thì phạm ba dật đề.

Thứ 27 giới hẹn ni cùng đi.- Nếu tỷ kheo hẹn với tỷ kheo ni đi chung một đường, thì dầu chỉ từ một xóm đến một xóm, cũng vẫn, trừ trường hợp khác, phạm ba dật đề. Trường hợp khác là đi với người đi buôn, hoặc đi mà có sự nghi ngại sợ hãi, đó gọi là trường hợp khác.

Thứ 28 giới cùng ni đi thuyền.- Nếu tỷ kheo cùng tỷ kheo ni hẹn nhau đi chung một thuyền ngược dòng hay xuôi dòng thì, trừ trường hợp đi đò ngang qua sông, phạm ba dật đề.

Thứ 29 giới ăn của ni khuyên.- Nếu tỷ kheo biết đồ ăn do tỷ kheo ni ca tụng khuyến hóa mà có, mà vẫn ăn, thì, trừ trường hợp thí chủ có ý thỉnh trước, phạm ba dật đề.

Thứ 30 giới đi với nữ nhân.- Nếu tỷ kheo cùng nữ nhân hẹn nhau đi một đường, thì dầu chỉ đi đến một xóm cũng vẫn phạm ba dật đề.

Thứ 31 giới ăn quá một bữa.- Nếu tỷ kheo có thí chủ chỉ cúng một bữa ăn, tỷ kheo ấy không bịnh thì nên ăn một bữa thôi. Nếu ăn quá đi thì phạm ba dật đề.

Thứ 32 giới ăn nhiều lần ăn.- Nếu tỷ kheo ăn nhiều lần thì, trừ trường hợp khác, phạm ba dật đề. Trường hợp khác là khi mình bị bịnh, khi có người dâng y, đó gọi là trường hợp khác.

Thứ 33 giới ăn riêng tăng chúng.- Nếu tỷ kheo ăn riêng tăng chúng thì, trừ các trường hợp khác, phạm ba dật đề. Các trường hợp khác là khi bịnh, khi may y gấp, khi có người dâng y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng tập hợp, khi sa môn của ngoại đạo mời ăn, đó gọi là các trường hợp khác.

Thứ 34 giới nhận quá giới hạn (84) .- Nếu tỷ kheo đến nhà cư sĩ có ý thỉnh tỷ kheo để cúng bánh, miến và cơm, tỷ kheo ấy nếu cần thì nhận vài ba bát, đem về trong chùa nên chia cho các tỷ kheo khác cùng ăn. Nếu tỷ kheo ấy không bịnh mà nhận quá vài ba bát, đem về trong chùa cũng không chia cho các tỷ kheo khác cùng ăn, thì phạm ba dật đề.

Thứ 35 giới muốn ăn cho đủ.- Nếu tỷ kheo ăn xong rồi, mà có khi nhận lời mời ăn nữa, nếu không làm phép ăn thừa (85) mà ăn, thì phạm ba dật đề.

Thứ 36 giới ép phạm ăn nữa.- Nếu tỷ kheo biết tỷ kheo khác ăn đủ rồi, mình có nhận lời mời ăn nữa mà không làm phép ăn thừa, lại ân cần mời tỷ kheo khác ấy cùng ăn với mình, và tỷ kheo khác ấy cùng ăn. Tỷ kheo ấy chỉ vì lý do muốn làm cho tỷ kheo khác ấy phạm giới, chứ không có lý do gì khác nữa, thì phạm ba dật đề.

Thứ 37 giới ăn lúc phi thời.- Nếu tỷ kheo ăn lúc không phải giờ ăn (86) , ăn như vậy thì phạm ba dật đề.

Thứ 38 giới ă

[Trở về]

 


Tin nổi bật
Đức Đạt Lai Lạt Ma cầu nguyện tại Thượng Viện Hoa Kỳ

Chùm ảnh : Không khí đón mừng Lễ Phật đản tại thành phố Jeonju - Hàn Quốc

Tu sửa tượng Phật cao nhất thế giới
LIEN KET
Duc Phat
Hạ Long
N. Augusta
North Augusta, South Carolina Forecast
Augusta
Augusta, Georgia Forecast
Hà Nội
Ha Noi
Tp Tam Kỳ
Da Nang
Tp Hồ Chí Minh
Ho Chi Minh
New Delhi
New delhi
Tokyo
Tokyo

Address: 924 W Martintown, North Augusta, SC 29841
Tel: +16789252202