|
Đức Đạt-lai La-ma, vị sứ giả của hòa bình
|
Đức Dalai Lama đang giảng Pháp
|
Mới đây theo công trình nghiên cứu cá nhân của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á, đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Ghandi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, tên thật là Tenzin Gyatso, là một nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng. Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6 tháng 7 năm 1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Ngài được thừa nhận là Dalai Lama vào năm 2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, cũng là hiện thân của Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara), một vị Bồ tát của lòng từ.
Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ tát, người chọn con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Dalai Lama, nghĩa là "Người bảo vệ đức tin" (Defender of the Faith), "Biển lớn của trí tuệ" (Ocean of Wisdom), "Vua của Chánh Pháp" (King of Dharma), Viên bảo châu như ý (Wishfulfilling Gem).....
Đức Đạt Lai Lạt Ma được tấn phong tước vị Dalai Lama vào ngày 22 tháng 2 năm 1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là người lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho 6 triệu người Tây Tạng.
1. Quá trình tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma:
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 viên tịch vào năm 1933, chính phủ Tây Tạng gặp khủng hoảng trong việc tìm kiếm một người thừa kế. Năm 1935, vị nhiếp chính đi đến hồ thiêng Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal, khoảng 90 dặm từ thủ đô Lhasa. Theo truyền thống của Tây Tạng, người ta có thể nhìn thấy mọi việc ở tương lai từ hồ thiêng (Holy lake) này. Lúc bấy giờ vị nhiếp chính thấy ba chữ Tây Tạng Ah, Ka và Ma hiện lên giữa mặt nước trong vắt của hồ thiêng, theo sau ba mẫu tự này là bức tranh của một ngôi chùa ba tầng với mái ngói màu xanh lục và một căn nhà có chiếc máng xối kỳ lạ.
Năm 1937, chính phủ Tây Tạng đã gởi những hình ảnh thiêng liêng ấy từ hồ thiêng đến các tỉnh thành của Tây Tạng để tìm kiếm nơi tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một phái đoàn tìm kiếm tái sanh được thành lập và đi về hướng Đông Bắc Tây Tạng, vị trưởng phái đoàn là Lạt ma Kewtsang Rinpoche, Tu viện trưởng Tu viện Sera. Khi phái đoàn đến làng Amdo, họ thấy quang cảnh nơi này giống y như hình ảnh đã thấy dưới hồ thiêng. Lobsang Tsewang cải trang thành người trưởng đoàn, và Lạt ma Kewtsang cải trang thành người thị giả và họ vào thăm một căn nhà với chiếc máng xối kỳ lạ. Bấy giờ Lạt ma Kewtsang có mang một xâu chuỗi (rosary) của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và chú bé trong căn nhà ấy đã nhận ra nó và yêu cầu được cầm xem. Lạt Ma Kewtsang hứa sẽ cho nếu chú đoán được ngài là ai. Và chú bé liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là "Sera aga'', nghĩa là ''Lạt ma ở tu viện Sera". Tiếp đó, Ngài hỏi chú bé vị trưởng đoàn là ai và chú bé đã trả lời đúng; chú cũng cho biết tên chính xác tên của người thị giả. Theo sau đó là một loạt trắc nghiệm khác để chú bé chọn lựa những đồ dùng thường ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và chú bé cũng nhận ra tất cả và nói: ''của tôi, của tôi". Chú bé ấy chính là Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay.
Từ những kết quả của cuộc kiểm tra này giúp họ đoán chắc rằng họ đã tìm ra hóa thân mới và niềm tin của họ càng được vững mạnh thêm bởi những ý nghĩa từ ba mẫu tự Tây Tạng đã từng thấy dưới hồ thiêng: Ah là hàm nghĩa cho tỉnh lỵ Amdo, nơi chú bé chào đời, Ka là chỉ cho Tu viện Kumbum, một ngôi Tu viện lớn nhất với ba tầng gần nhà của chú bé và Ma là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên. Cuối cùng phái đoàn quyết định chú bé ấy là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.
2. Tu học tại Tây Tạng :
Đức Đạt Lai Lạt bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình vào năm 6 tuổi và hoàn tất học vị cao nhất của PG Tây Tạng là Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ triết học Phật giáo (Doctorate of Buddhist Philosophy) ở tuổi 25 vào năm 1959. Năm 24 tuổi, Ngài đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung, Sera và Ganden. Kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa trong thời gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo lịch Tây Tạng.
Trước đó Ngài phải học tất cả các môn học chính như Luận lý (Logic) văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (Sanskrit), Y học (Medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Phật học này là khó nhất, được chia ra làm năm phần là Bát nhã (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), Luận A Tỳ Đạt Ma (Abidharma) và Nhân minh luận (Pramana) . Và các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics), thơ ca (poetry), âm nhạc (music) và kịch nghệ (drama), thiên văn (astrology), văn phạm (metre and phraseing ).
3. Vai trò và trách nhiệm lãnh đạo :
Vào ngày 17 tháng 11 năm 1950, Đức Đạt Lai Lạt đã khoác lên mình một trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của người dân Tây Tạng (head of the State and Government) sau khi có khoảng 80.000 quân lính của Trung Quốc tấn công vào Tây Tạng.
Năm 1954, Ngài đã đến Bắc kinh để thương thuyết hòa bình với chủ tịch Mao Trạch Đông (Mao Tse-tung) và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai (Chou En-lai) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping). Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùng Ngài đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng Ngài phải ra nước ngoài.
4. Đào thoát khỏi Tây Tạng :
Với nỗ lực mang lại một giải pháp hòa bình của Ngài cho người dân Tây Tạng đã bị cản trở bởi một chính sách tàn bạo của nhà cầm quyền Bắc Kinh, trong khi đó ở miền Đông Tây Tạng dân chúng đã đứng lên kháng cự mạnh mẽ đối với sự đàn áp của Trung Hoa. Sự kháng cự này đã lan ra trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1959, một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị bẻ gãy một cách tàn nhẫn của quân đội điên cuồng của Hoa Lục. Kết quả của cuộc xâm lăng này đã giết chết hàng triệu người Tây Tạng vô tội và phá hủy 6 triệu chùa chiền tại đất nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi khổ đau ấy, 80.000 người dân Tây Tạng cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến tị nạn tại miền bắc Ấn Độ vào năm 1959.
5. Chính phủ lưu vong tại Dharamsala, miền Bắc Ấn Độ :
Ngày nay, với hơn 120.000 người Tây Tạng lưu trú tại vùng đất Dharamsala, Ấn Độ, được biết như là một ''Lhasa nhỏ", lập thành một chính quyền lưu vong Tây Tạng với một Hội Đồng Dân Cử Tây Tạng (Commission of Tibetan People's Deputies) vào năm 1960.
Trong những năm đầu lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi Hoa Kỳ lên tiếng về vấn đề của Tây Tạng, kết quả ba quyết nghị đã được thông qua tại Hội Đồng lập Pháp của Hoa Kỳ vào năm 1959, 1961 và năm 1965, kêu gọi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng và ước muốn tự trị của họ. Với việc thành lập một chính phủ lưu vong Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy rằng công việc khẩn cấp phải làm là cứu nguy dân tị nạn và nền văn hóa của Tây Tạng. Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã dần được tái hoạt động tại Ấn Độ. Trẻ em Tây Tạng được đi học và một Trường đại học Tây Tạng được thành lập tại Ấn Độ. Có khoảng 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng tại Ấn để Tăng chúng tu học, duy trì và bảo vệ văn hóa và tôn giáo của Tây Tạng.
Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một hiến pháp dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên giới luật của nhà Phật và bản hiến chương nhân quyền của LHQ để biên soạn và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai.
Năm 1965, Ngài đến tham dự đại lễ Phật Đản Phật lịch 2500 tại Ấn Độ, đã gặp được Thủ tướng Ấn ông Nehru và ông Chu Ân Lai , đàm phán về vấn đề của Tây Tạng.
Ngày nay, thành viên của quốc hội Tây Tạng sẽ được bầu cử bởi dân chúng. Hội đồng nội các được bầu cử bởi quốc hội. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của chính quyền Tây Tạng là chăm lo cho đời sống người dân và Ngài cũng nói thêm, khi Tây Tạng giành lại nền độc lập, Ngài sẽ không còn ngồi ở văn phòng chính phủ nữa.
Năm 1987, Đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự một hội nghị nhân quyền tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ. Ngài đề xuất một Chương Trình Hòa Bình Năm Điểm (A Five-Point Peace Plan) bao gồm, 1) Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình; 2) Chấm dứt việc di dân Trung Hoa đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng; 3) Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do và quyền làm người của dân Tây Tạng; 4) Phục hồi và bảo vệ môi sinh của Tây Tạng và chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để sản xuất vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên tử; và 5) Khởi sự thương thảo ngay về quy chế tương lai của Tây Tạng và bang giao giữa Tây Tạng với Trung Hoa.
Ngày 15 tháng 6 năm 1988, tại Strasbourg, Pháp quốc Ngài nhắc lại Chương Trình Hòa Bình Năm Điểm và yêu cầu nhà cầm quyền Bắc kinh trao trả lại nền độc lập cho Tây Tạng. Ngày 9 tháng 10 năm 1991, trong khi phát biểu tại đại học Yale, Hoa Kỳ, Ngài bày tỏ ý định muốn trở về thăm Tây Tạng để đích thân đánh giá tình hình chính trị nơi ấy. Ngài nói: ''Tôi thật sự lo lắng vì tình cảnh bạo động có lẽ sẽ bùng nỗ. Tôi muốn làm cái gì đó để chận đứng lại... chuyến viếng thăm của tôi sẽ là một cơ hội mới để làm tăng thêm sự cảm thông và tạo ra một nền tảng để giải quyết''.
6. Các giải thưởng :
Từ chuyến viếng thăm phương Tây đầu tiên của Ngài vào năm1973, một số trường đại học và viện nghiên cứu đã trao tặng Ngài những Giải thưởng về Hòa bình (Peace Award) và Bằng Tiến sĩ danh dự (honorary Doctorate Degree) để tuyên dương những tác phẩm xuất sắc của Ngài viết về triết học Phật giáo, giải pháp cho những xung đột của quốc tế, vấn đề nhân quyền và môi sinh toàn cầu. Trong lần trao giải thưởng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ủy Hội Nhân quyền Raoul Wallenberg, dân biểu Mỹ ông Tom Lantos đã nói: "sự đấu tranh dũng cảm của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tạo ra một sự chú ý đặc biệt về nhân quyền và hòa bình thế giới. Sự kiên trì đấu tranh của Ngài để chấm dứt khổ đau cho dân tộc Tây Tạng qua những cuộc đàm phán hòa bình và hòa giải".
7. Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1989 :
Ủy ban Hòa Bình Na Uy quyết định trao tặng Giải thưởng Nobel Hòa Bình (Peace Prize) cho Ngài vào năm 1989 sau khi được cả thế giới tán dương và tán thành, ngoại trừ Trung Hoa. Trong quyết định ấy có đoạn viết: "Ủy ban muốn nhấn mạnh rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma với sự đấu tranh cho tự do cho Tây Tạng vẫn kiên quyết không sử dụng bạo lực. Ngài đã ủng hộ giải pháp hòa bình dựa trên tinh thần khoan dung và tôn trọng lẫn nhau để bảo vệ lịch sử và tài sản văn hóa của con người''.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp nhận giải thưởng hòa bình trên tinh thần nhân danh những người bị đàn áp ở khắp mọi nơi, tất cả những ai đấu tranh cho tự do và hòa bình thế giới và đặc biệt là nhân dân Tây Tạng. Trong lời phát biểu tại buổi lễ nhận giải, Ngài đã nói: ''Giải thưởng đã tái xác nhận một lần nữa lòng quyết tâm của chúng tôi rằng chân lý, lòng dũng cảm và quyết tâm của chúng tôi như là những vũ khí, Tây Tạng sẽ được tự do. Cuộc đấu tranh của chúng tôi vẫn phải theo đuổi đường hướng bất bạo động và loại bỏ hận thù'' ("The prize reaffirms our conviction that with truth, courage and determination as our weapons, Tibet will be liberated. Our struggle must remain nonviolent and free of hatred").
8. Tiếp xúc với Đông & Tây :
Từ năm 1967, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khởi hàng loạt chuyến viếng thăm, đến nay đã được 46 quốc gia. Vào mùa thu năm 1991, Ngài đến thăm vùng Baltic khi nhận được lời mời của Tổng thống Lithuania, ông Vytautas Landsbergis, và Ngài đã trở thành vị khách ngoại quốc đầu tiên đọc diễn văn tại quốc hội của Lithuania. Ngài đã gặp đức Giáo Hoàng Paul đệ lục tại Vatican vào năm 1973 và đức Giáo Hoàng John Paul đệ nhị vào năm 1980 tại Rome và các năm khác là 1980, 1982, 1986, 1988 và 1990.
Sau đây là bản liệt kê danh sách các quốc gia mà Đức Đạt Lai Lạt đã viếng thăm:Argentina 1992, 1999 ; Úc Đại Lợi: 1982, 1992, 1996; Áo quốc: 1973, 1983, 1986, 1989, 1991,1992, 1993, 1995, 1998 ; Bỉ: 1973, 1990, 1991, 1994, 1999; Bulgaria 1991; Buryat Autonomous 1991, 1993; Brazil, 1992, 1999 ; Canada 1980, 1990,1993 ; Chile 1992, 1999 ; Costa Rica 1989 ; Czechkoslvakia 1990 ; Đan Mạch: 1973, 1991, 1996; Estonia 1991; Phần Lan: 1988, 1996, 1998; Pháp: 1982, 1986, 1988, 1989, 1990, 1991, 1992, 1993, 1994, 1998; Đức: 1973, 1982, 1983, 1984, 1986, 1987, 1988, 1989, 1990, 1991,1992,1994, 1995, 1996, 1998, 1999; Greece 1979; Hungary 1982, 1989, 1992, 1993. 1996 ; Indonesia 1982; Israel 1994, 1999 ; Italy 1982, 1986, 1988, 1989, 1991, 1994, 1996, 1999; Nhật Bản: 1967, 1978, 1980, 1984,1994, 1995, 1998; Latvia 1991; Liechtenstein 1991; Lithunia 1991; Mã Lai: 1982; Mexico 1989 ; Mông Cổ: 1979, 1982, 1991, 1994; Nepal 1981; Tân Tây Lan: 1992, 1996; Na Uy: 1973, 1989, 1991, 1996 ; Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa: 1954; Hòa Lan: 1993; Cộng Hòa Ấn Độ: 1956, 1959 (cũng là nơi Ngài trú ngụ hiện nay); Cộng Hòa Ái Nhĩ Lan: 1973, 1991; Singapore: 1982 ; Tây Ban Nha: 1982, 1994 ; Nam Phi: 1996; Thụy Điển: 1973, 1988, 1990, 1991, 1996; Thụy Sĩ: 1973, 1974, 1974, 1983, 1985, 1987, 1988, 1990, 1991,1994, 1995, 1996, 1998; Thái Lan: 1967, 1972, 1993; Hà Lan 1973, 1986, 1990,1994; Tòa thánh Vatican: 1973, 1981, 1984, 1988, 1990, 1991, 1996 ; Thổ Nhĩ Kỳ: 1983; Anh quốc: 1973, 1981, 1984, 1988, 1991,1993, 1994, 1996, 1999 ; Liên Xô cũ: 1991,1994; Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ: 1979, 1980, 1981, 1984, 1987, 1990, 1991, 1992, 1993, 1994, 1995, 1996, 1998, 1999.
9. Những nhà lãnh đạo mà Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp xúc:
Năm 1999 :
Ngày 16 tháng 6: ông Josckha Fischer, Bộ trưởng ngoại giao Đức
Ngày 12 tháng 5: ông Robin Cook, Bộ trưởng ngoại giao Anh
Ngày 13tháng 5: ông Tony Blair, Thủ tướng Anh
Ngày 4 tháng 5: ông Jean Luc DEHAENE, Thủ tướng Bỉ
Ngày 14 tháng 4: ông Edwardo Frei, Tổng thống cộng hòa Chile
Ngày 7 tháng 4: ông Fernando Henrique Cardoso, Tổng thống Brazil
Năm 1998:
Ngày 8 tháng 12: ông Jacques Chirac, Tổng Thống Pháp
Ngày 8 tháng 12: ông Lionel Jospin, Thủ tướng Pháp
Ngày 8 tháng 12: ông Kofi Annan, Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc
Ngày 10 tháng 12: ông William J. Clinton, Tổng thống Mỹ
Ngày 10 tháng 12: ông Albert Gore, Phó Tổng thống Mỹ
Ngày 10 tháng 12: bà Madeleine Alright, Ngoại trưởng Mỹ
Ngày 20 tháng 12: ông Claes Anderson, Bộ Trưởng Văn Hóa, Phần Lan
Ngày 16 tháng 12: bà Elisabeth Guigou, Bộ Trưởng Tư Pháp, Pháp quốc
Ngày 9 tháng 12: ông Wolfgang Schuessel, Bộ Trưởng Ngoại giao, Áo
Năm 1997
Ngày 23 tháng 4: bà Madeleine Albright, Ngoại trưởng Mỹ
Ngày 23 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng thống Mỹ
Ngày 23 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng thống Mỹ
Ngày 24 tháng 3: ông Lin Feng-cheng, Bộ Trưởng Nội Vu, Đài Loan
Ngày 26 tháng 3: ông Lien Chan, Phó Tổng Thống Đài Loan
Ngày 27 tháng 3: ông Lee Teng-hui, Tổng Thống Đài Loan
Năm 1996
Ngày 23 tháng 10: ông Van Mierlo, Ngoại Trưởng Phần Lan
Ngày 23 tháng 10: Tiến sĩ Klaus Hansch, Chủ tịch Nghị Viện Châu Âu
Ngày 23 tháng 10: ông Jacques Santer, Chủ tịch Liên Minh Châu Âu
Ngày 29 tháng 10: ông Jacues Toubon, Bộ Trưởng Tư Pháp, Pháp quốc
Ngày 26 tháng 9: ông John Howard, Thủ tướng Úc
Ngày 14 tháng 9: ông Alexander Downer, Ngọai trưởng Úc
Ngày 11 tháng 9: ông Jim Bolger, Thủ tướng Tân Tây Lan
Ngày 11 tháng 9: ông Don McKinnon, Phó Thủ tướng Tân Tây Lan
Ngày 22 tháng 6: ông Nelson Mandela, Tổng thống Nam Phi
Ngày 17 tháng 7: ông Malcom Rifkind, Ngoại trưởng Anh
Ngày 28 tháng 5: ông Bj貮 Tore Godal, Ngoại trưởng Na Uy
Ngày 27 tháng 5: ông Pekka Haavisto, Bộ Trưởng Môi Sinh, Phần Lan
Ngày 23 tháng 5: bà Lena Hjelm-Walln, Ngoại Trưởng Thụy Điển
Ngày 20 tháng 5: Giáo hoàng Pope John Paul II
Ngày 15 tháng 5: ông Niels Petersen, Ngoại Trưởng Đan Mạch
Ngày 30 tháng 4: Hoàng tử Albert, xứ Monaco
Ngày 13 tháng 9: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ
Ngày 13 tháng 9: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ
Ngày 4 tháng 5: Tiến sĩ Klaus Kinkel, Ngoại trưởng Đức
Ngày 23 tháng 6: ông Flavio Cotti, Ngoại Trưởng Thụy Sĩ
Năm 1994
Ngày 8 tháng 10: bà Gro Harlem Brundtland, Thủ Tướng Na Uy
Ngày 3 tháng 7: bàVioleta Chamorro, Tổng Thống Nicaragua
Ngày 17 tháng 6: ông Silvio Berlusconi, Thủ Tướng Italy
Ngày 16 tháng 6: ông Oscar Luigi Scalfaro, Tổng Thống Italy
Ngày 9 ttháng 6: ông Marin Gonzalez, Phó Chủ Tịch Liên Minh Châu Âu
Ngày 7 tháng 6: ông Jean Luc Dehene, Thủ Tướng Bỉ
Ngày 6 tháng 6: ông Pleter Kooilmans, Ngoại Trưởng Hà Lan
Ngày 5 tháng 6: ông Wim Kok, Tổng Trưởng Tài chính Hà Lan
Ngày 29 tháng 4: Giáo sư Karl-Hans Laermann, Tổng Trưởng Giáo Dục Đức
Ngày 28 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ
Ngày 28 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ
Ngày 21 tháng 3: ông Yossi Sarid, Bộ Trưởng Môi Sinh Israel
Năm 1993
Ngày 16 tháng 11: ông Francois Mitterrand, Tổng Thống Pháp
Ngày 16 tháng 11: ông Alain Juppe, Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp
Ngày 14 tháng 11: ông Philippe Douste Blazy, Bộ Trưởng Y Tế Pháp
Ngày 30 tháng 10: ông Alain Carignon, Tổng Trưởng Thông Tin Pháp
Ngày 28 tháng 10: ông Michel Barnier, Bộ Trưởng Môi Sinh Pháp
Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Thomas Klestil, Tổng Thống Áo
Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Alois Mock, Bộ Trưởng Ngoại giao Áo
Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Nikolaus Michalek, Bộ Trưởng Tư Pháp Áo
Ngày 15 tháng 6: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo
Ngày 15 tháng 6: Tiến sĩ Erhard Buiek, Phó Thủ Tướng Áo
Ngày 29 tháng 6: bà Barbara McDougal, Bộ Trưởng Nội Vụ Canada
Ngày 12 tháng 5: ông Douglas Hurd, Bộ Trưởng Ngoại giao Anh
Ngày 27 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ
Ngày 27 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ
Ngày 26 tháng 4: ông Warren Christopher, Bộ Trưởng Ngoại giao Mỹ
Năm 1992
Ngày 6 tháng 4: ông Gareth Evan, Bộ Trưởng Ngoại giao Úc
Ngày 8 tháng 4: ông Paul Keating, Thủ Tướng Úc
Ngày 14 tháng 4: ông Don McKinnon, Bộ Trưởng Ngoại giao Tân Tây Lan
Ngày 11 tháng 4: ông Carlos Menem, Tổng Thống Argentina
Ngày 17 tháng 5: ông Patiricio Aylwin, Tổng Thống Chile
Ngày 16 tháng 7: Tiến sĩ Thomas Klestil, Tổng Thống Áo
Ngày 26 tháng 7: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo
Năm 1991
Ngày 22 tháng 3: bà Mary Rohinson, Tổng Thống Ái Nhĩ Lan
Ngày 16 tháng 4: ông George Bush, Tổng Thống Mỹ
Ngày 16 tháng 8: His Highness Hans Adam, Prince of Lichtenstein
Ngày 19 tháng 8: ông Rene Felber, Bộ Trưởng Ngoại giao Thụy Sĩ
Ngày 16 tháng 8: ông Ronald Dumas, Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp
Ngày 2 tháng 9: ông Kurt Waldheim, Tổng Thống Áo
Ngày 2 tháng 9: ông Alois Mock, Bộ Trưởng Ngoại giao Áo
Ngày 3 tháng 9: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo
Ngày 29 tháng 9: ông Vytautas Landsbergis, Tổng Thống Lithaunia
Ngày 30 tháng 9: ông Gediminas Vagnorius, Thủ Tướng Lithaunia
Ngày 1 tháng 10: ông Kazimieras Motieka, Phó Tổng Thống Lithaunia
Ngày 2 tháng 10: ông Anatolijs Gorbunvos, Tổng Thống Lavtia
Ngày 3 tháng 10: ông Andregs Krastins, Phó Tổng Thống Lavtia
Ngày 4tháng 10: ông Bronius Kuzmickas, Phó Tổng Thống Estonia
Ngày 5tháng 10: ông Zhelyn Zhelev, Tổng Thống Bulgaria
Ngày 2 tháng 12: ông John Major, Thủ Tướng Anh
Ngày 4 tháng 12: bà Margaretha af Ugglas, Tổng Thống Thụy Điển
Ngày 5 tháng 12: ông Uffe Ellemann-Jensen, Bộ Trưởng Ngoại giao Đan Mạch
Ngày 8 tháng 12: ông Torvald Stoltenberg, Bộ Trưởng Ngoại giao Na Uy
Năm 1990
Ngày 2 tháng 2: ông Vaclav Havel, Tổng Thống Czechoslovakia
Ngày 24 tháng 24: Hon Lizin, Bộ Trưởng thương Mại và Hợp Tác Pháp
Ngày 1 tháng 6: Đức Giáo hoàng John Paul II
Ngày 2 tháng 9: ông Gerry Weiner, Ngoại Trưởng Canada
Ngày 10 tháng 9: ông H. van den Broek, Bộ Trưởng Ngoại giao Hà Lan
Ngày 7 tháng 10: ông Richard von Weizsacher, Tổng Thống Đức
Năm 1989
Ngày 27 tháng 6: Tiến sĩ Oscar Arias, Tổng Thống Costa Rica
Ngày 3 than1g 7: ông Carlos Salinas de Gortari, Tổng Thống Mexico
Ngày 6 tháng 12: ông Jurgen Wohlrabe, Tổng Thống Tây Đức
Ngày 9 tháng 12: ông Kjell Magne Bondevik, Bộ Trưởng Ngoại giao Na Uy
Ngày 10 tháng 12: Vua Olav, Na Uy
Ngày 11 tháng 12: ông Jan P. Syse, Thủ Tướng Na Uy
Năm 1986
Ngày 13 tháng 5: Tiến sĩ Rudolf Kirchschlaeger, Tổng Thống Áo
Ngày 27 tháng 5: ông Jacques Chirac, Thủ Tướng Pháp
Năm 1982
Ngày 27 tháng 7: ông Tunku Abdul Rahman, Bộ Trưởng Ngoại giao Mã Lai
Ngày 26 tháng 7: ông A. Ratu Perwiranegasa, Tổng Trưởng Tôn giáo Mã Lai
Ngày 2 tháng 8: Ông Adam Malik, Phó Tổng Thống Nam Dương
Năm 1980
Ông Suzuki Zenko, Thủ Tướng Nhật Bản
Năm 1978
Bà J.R. Jayewardene, Phu nhân Tổng Thống Sri Lanka
Năm 1973
Ngày 1 tháng 9: Đức Giáo Hòang Pual V
Ngày 10 tháng 10: ông Erskine Chidlers, Tổng Thống Ái Nhĩ Lan
Ngày 10 tháng 10 ông Lien Cosgrade, Thủ Tướng Ái Nhĩ Lan
Ngày 10 tháng 10: ông Frank Aiken, Bộ Trưởng Ngoại giao Ái Nhĩ Lan
Năm 1967
Ngày 13 tháng 11: ông Field Marshal T. Kittikachorn, Thủ Tướng Thái Lan
Ngày 14 tháng 11: Vua Bhumibol Adulyadej, Thái Lan
Năm 1956
Tất cả các vị Thủ Tướng, Tổng Thống, Phó Tổng Thống Ấn Độ
Năm 1954
Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình
10. Một Tu sĩ Phật Giáo bình thường
Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng: ''Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình thường, không hơn, không kém'' (I am just a simple Buddhist monk - no more, no less). Sống trong một tịnh thất nhỏ ở Dharamsala, Ngài thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, ngồi thiền, rồi tiếp tục làm việc theo thời khóa biểu của văn phòng chính phủ, tiếp khách và diễn giảng giáo lý cho các khóa tu hoặc chứng minh các đại lễ.
11. Tác phẩm của Ngài :
Mặc dù bận rộn với nhiều công tác của chính phủ và hoằng Pháp, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng dành những thời gian nhất định để viết những tác phẩm Phật học, lịch sử, tự truyện... để phổ biến những tinh túy trong giáo lý của Phật Đà. Khởi viết cuốn ''Đất nước và Con người của Tôi'' (My Land and My People) vào năm 1964 sau khi Ngài đến tị nạn tại Ấn Độ, tính đến nay đã có trên dưới 50 tác phẩm các loại, do chính ngài tự tay viết hoặc do đệ tử ghi chép những bài giảng của Ngài hoặc họ viết về ngài. Đáng chú ý trong số tác phẩm này là : "Khai mở con mắt trí tuệ" (The opening of the Wisdom eye, xuất bản năm 1972; "Phật giáo của Tây Tạng'' (The Buddhism of Tibet, xb năm 1975); "Dalai Lama: chính sách của Lòng Từ" (The Dalai Lama: A Policy of Kindness, xb năm 1990); "Tự do nơi lưu đầy'' (Free in Exile, xb năm 1991); "Ý nghĩa của cuộc sống'' (The meaning of Life, xb năm 1992) "Tia sáng trong bóng đêm" (Flash of Lightning in the Dark of Night, xb năm 1994); ''Cuộc đối thoại về trách nhiệm chung và giáo dục ''(Dialogues on Universal Responsibility and Education, xb năm 1995); "Sức mạnh của lòng từ'' (The power of compassion, xb năm 1995); "Con đường giải thoát'' (The path of Enlightenment, xb năm 1995); "Bạo lực và Lòng từ bi/ sức mạnh của Phật giáo" (Violence and Compassion/ Power of Buddhism, xb năm 1995); "Bốn Chân Lý Mầu Nhiệm" (The Four Noble Truths, xb năm 1998); "Nghệ thuật hạnh phúc" (The art of Happiness, xb năm 1998).v.v... (địa chỉ liên lạc để thỉnh sách của Ngài là: Snow Lion, PO Box 6483. Thaca, NY 14851, USA. Tel: 001-607-273-8519. Fax: 001-607-273-8508. e-mail: Snow Lion. http://www.snowlionpub.com. Wisdom Publication, 361 Newbury Street, Boston, Ma. 02115, USA. Tel: 001-617-536-3358, Fax: 001-617-536-1897. http://www.snowlionpub.com; Dharma Publishing, 2910 San Pablo Ave, Berkeley, CA 94702, USA. Tel: 001-510-548-5407. Fax: 001-510-548-2230. Wisdom Books, 402 Hoe Street, London E17 9AA, UK. Tel: 0044-181-520-5588. Fax: 0044-181-520-0932. http://www.demon.co.uk/wisdom . Địa chỉ liên lạc với tác giả: His Holiness the Dalai-Lama's Religious and Cultural Society. Gangchen Kyishong, Dharamsala 176215, District Kangra, Himachal Pradesh INDIA.
12. Kết luận:
Như sự mô tả của giáo sư Eric Sharpe thánh nhân là người suốt đời chú trọng đến việc mang lại an lạc cho con người và cuộc đời. Trong khi theo đuổi lý tưởng ấy, họ thường phải hứng chịu những trở ngại, đau đớn hoặc nguy hiểm đến sinh mạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã hiện thân cho những gì đã được mô tả ấy. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, sự xuất hiện của ngài như là một định mệnh, đã thừa kế tước vị Dalai Lama ở trong một giai đoạn bấp bênh nhất trong toàn bộ lịch sử cao quý này. Hiện nay, vẫn trong thân phận người tị nạn lưu vong, tuy nhiên, Ngài rất lạc quan và hy vọng cho tương lai độc lập và tự do cho thế giới và xứ sở của Ngài như lời Ngài đã nhắc tới trong bức Thông Điệp 2000: "Thế kỷ 20 đầy xung đột và chiến tranh. Từng bước, chúng ta bảo đảm thế kỷ tới sẽ có đặc tính bất bạo động và đối thoại, là điều kiện tiên quyết để cùng hiện hữu bên nhau trong hòa bình". "Xã hội nào cũng có những khác biệt và xung đột. Tuy vậy, chúng ta cần phát triển niềm tin tưởng rằng: đối thoại và tình bạn là một đường lối chính chắn để tránh bạo động. Trước thiên kỷ mới, điều mọi người cần thực hiện là tăng cường tinh thần trách nhiệm đối với quốc tế". /.
Tổng hợp theo các tài liệu:
- Mary craig (1997) Kundun, A biography of the Family of the Dalai Lama, Harper Collins Publishers, London
- Roger Hicks & Ngakpa Chogyam (1984) Great Ocean, An Authories Biography of the Buddhist Monk Tenzin Gyatso His Holiness The 14th Dalai Lama, Element Books, Great Britain.
- Tenzin Gyatso Dalai Lama (1998), Freedom in Exile, Snow Lion Publications, New York.
Thích Nguyên Tạng [Trở về]
|
|